SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGHỆ THUẬT THỜI PHỤC HƯNG NHƯ TẤM GƯƠNG PHẢN CHIẾU TINH THẦN THỜI ĐẠI
Mục lục:
Lý do chọn đề tài: 2
A PHẦN MỞ ĐẦU.. 3
B PHẦN NỘI DUNG.. 4
- Thời kỳ Phục hưng – cái nhìn tới từ lịch sử. 4
1.1: Hạn từ Phục hưng và những cơ sở ra đời của thời kỳ Phục Hưng. 4
1.1.1: Hạn từ Phục hưng và ý nghĩa của nó. 4
1.1.2: Những nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của thời kỳ Phục hưng. 5
1.2: Sự ra đời và lan rộng của thời kỳ Phục hưng ra toàn châu Âu. 6
1.2.1: Sự ra đời của thời kỳ Phục hưng tại Italia. 6
1.2.2 : Sự lan rộng của thời kỳ Phục hưng ra toàn cõi châu Âu. 7
- Thời kỳ Phục hưng – cái nhìn thông qua nghệ thuật. 8
2.1: Thời kỳ Phục hưng tại Italia phản chiếu thông qua các loại hình nghệ thuật. 8
2.1.1: Sự phản ánh của văn học Phục hưng Italia với tinh thần xã hội. 8
2.1.2 : Sự phản ánh của hội họa Phục hưng Italia với tinh thần xã hội. 10
2.1.3: Sự phản ánh của điêu khắc và kiến trúc Phục hưng Italia với tinh thần xã hội. 15
2.2: Thời kỳ Phục hưng lan rộng ra khắp châu Âu phản chiếu thông qua nghệ thuật. 18
2.2.1: Sự phản ánh thông qua văn học và kịch nghệ của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng. 18
2.2.2: Sự phản ánh thông qua âm nhạc của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng. 22
2.2.3: Sự phản ánh thông qua các loại hình nghệ thuật khác của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng. 22
- Trích dẫn hình ảnh của một số các tác phẩm nghệ thuật thời kỳ Phục hưng tiêu biểu. 26
- PHẦN KẾT LUẬN.. 32
CÁC THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG.. 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 34
Lý do chọn đề tài:
Có một nhà nghiên cứu mỹ học trước Marx đã đưa ra quan điểm sau về
nghệ thuật: “ nghệ thuật là bản sao của cuộc sống”. Quan điểm trên đây
có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, các cách cắt nghĩa khác nhau
như vẻ đẹp của cuộc sống được chuyển tải vào nghệ thuật nhưng ở một mức
độ nào đó thấp hơn so với hiện thực của cuộc sống hoặc có thể hiểu là
nghệ thuật phản ánh thế giới một cách đầy cô đọng. Tuy nhiên dù ta hiểu
quan điểm trên theo cách cắt nghĩa nào thì tựu chung lại quan điểm trên
vẫn đưa ra một ý nghĩa chung đó là nó nói lên chức năng của nghệ thuật
đó là chức năng phản ánh tồn tại xã hội. Quả đúng là như vậy. Nghệ thuật
từ khi ra đời nó đã được coi là công cụ đặc biệt được dùng để phản ánh
tồn tại xã hội. Xã hội con người dù phát triển ở trình độ nào cũng được
nghệ thuật phản ánh lại. Và đặc biệt ở thời kỳ Phục hưng sự xuất hiện
của nghệ thuật thời kỳ Phục hưng được coi như là tấm gương phản ánh tinh
thần của thời đại này. Với mục đích làm sáng tỏ quan điểm trên tôi
quyết định lựa chọn chính quan điểm này là đề tài tiểu luận môn mỹ học
Marx – Lenin của mình. Đề tài của tôi có tên là : sự xuất hiện của nghệ
thuật thời Phục hưng như tấm gương phản ánh tinh thần của thời đại.
A PHẦN MỞ ĐẦU
Thời kỳ Phục hưng tại châu âu là một thời kỳ được đánh giá là dấu mốc
vàng son của văn minh châu âu hậu thời kỳ cổ đại. Thời kỳ phục hưng là
thời kỳ mà các giá trị tinh túy nhất của văn hóa Hy Lạp – La Mã cổ đại
được phục sinh và phát triển một cách đầy mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực mà
đặc biệt là ở lĩnh vực nghệ thuật. Nghệ thuật thời kỳ Phục hưng được
đánh giá là tấm gương phản ánh tinh thần của thời đại. Trên cơ sở những
quan điểm của mỹ học Marxist, sự phân tích các tác phẩm nghệ thuật thời
kỳ Phục hưng tôi sẽ làm sáng tỏ luận điểm trên về nghệ thuật thời kỳ
Phục hưng.
B PHẦN NỘI DUNG
- Thời kỳ Phục hưng – cái nhìn tới từ lịch sử.
1.1: Hạn từ Phục hưng và những cơ sở ra đời của thời kỳ Phục Hưng
1.1.1: Hạn từ Phục hưng và ý nghĩa của nó.
Từ thời kỳ Phục hưng khi được chúng ta đưa ra xem xét để hiểu được nó
chúng ta thường ngay lập tức tới việc đây là thời kỳ mà những giá trị
về văn hóa, nghệ thuật, khoa học của nền văn minh Hy Lạp – La Mã cổ xưa
được phục dựng lại và được quan tâm tới nhiều hơn so với thời kỳ trung
cổ. Tuy nhiên cách hiểu này bấy lâu nay của chúng ta vẫn thực sự chưa có
sự đầy đủ bởi sự quan tâm tới những giá trị văn hóa của thời kỳ Hy Lap –
La Mã cổ đại không phải chỉ ở giai đoạn thế kỳ thứ 14 ,15 mới xuất hiện
mà trong giai đoạn chế độ phong kiến tại châu Âu có sự phát triển mạnh
mẽ các vị huân tước hay các tác gia thời kỳ này cũng đã có sự để tâm
tới các giá trị văn hóa Hy Lạp – La Mã cổ. Những cái tên tiêu biểu cho
việc yêu thích và nghiên cứu các giá trị văn hóa đặc biệt là văn học của
văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại ở thời kỳ phát triển của chế độ phong
kiến đó là tác gia John của xứ Salisbury, Dante và các nhà thơ Goliard.
Quay trở lại với ý nghĩa của hạn từ Phục hưng, xét theo nghĩa đen của từ
này có ý nghĩa là sự tái sinh và có ý trùng lặp với các cách hiểu được
phổ biến. Tuy nhiên khi nói tới hạn từ Phục hưng ở một chừng mực nhất
định nào đó đây chính là đỉnh điểm của một loạt các sự phục hưng đã
xuất hiện ở thế kỷ thứ 9 và tới thế ky thứ 14 với những yếu tố, những
nền tảng thích hợp nhất những sự phục hưng đó trở nên lớn mạnh hơn bao
giờ hết và tạo nên một thời kỳ lịch sử chói lọi có tên là thời kỳ phục
hưng. Vả những tiền đề nào đã là cơ sở cho những sự phục hưng có từ thể
kỷ 9 trở thành một thời kỳ vàng son ở thế kỷ 14 là một vấn đề mà chúng
ta cần phải tìm hiểu.
1.1.2: Những nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của thời kỳ Phục hưng
Sự ra hình thành của thời kỳ Phục hưng được dựa trên rất nhiều cơ sở
trong đó có những cơ sở là cơ sở trực tiếp dẫn đến thời kỳ Phục hưng và
bên cạnh đó là một số các sự kiện được coi là nguyên nhân dẫn tới thời
kỳ phục hưng. Và để tiếp cận với những nguyên nhân dẫn tới thời kỳ Phục
hưng chúng ta sẽ đến với nguyên nhân trực tiếp dẫn dắt tới sự thời kỳ
này đó là sự bảo trợ giao dịch. Có thể nhiều người sẽ cảm thấy băn khoăn
khi tôi đưa ra nguyên nhân này và coi nó là một nguyên nhân có tính
trực tiếp dẫn tới thời kỳ Phục hưng. Tuy nhiên theo Edward McNall Burns
tác giả cuốn Western Civilzation: their history and their culture ( bản
dịch tại Việt Nam là cuốn văn minh phương tây lịch sử và văn hóa) thì
sự bảo trợ trong giao dịch chính là nguyên nhân lớn nhất và trực tiếp
nhất dẫn tới thời kỳ Phục hưng. Các nguyên nhân chúng ta được biết từ
trước tới nay đều có những điểm chung ở việc chúng có sự kích thích sự
phục hồi tri thức và nghệ thuật Hy Lạp – La Mã cổ đại trong các thế kỷ
12 và 13. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân được bổ sung như là: thứ
nhất đó là sự phục hồi nghiên cứu các bộ luật La Mã trước đây và nó đã
tạo ra sự quan tâm thế tục, thứ hai đó là sự quan tâm tới các tri thức
trong các trường đại học, thứ 3 đó là sự phát triển của ngoại giáo…. Và
tất cả các nguyên nhân kể trên để có thể phát triển một cách mạnh mẽ
nhất, được quan tâm nhiều nhất đều là dựa trên cơ sở của sự bảo trợ tới
từ phía các nhà bảo trợ giàu có và yêu mến tri thức cả ở trong và ngoài
nhà thờ. Lực lượng bảo trợ tới từ phía ngoài nhà thờ chính là các dòng
họ lớn, những thương gia lớn như gia tộc Medici ở xứ Florence, dòng họ
Sforza ở thành Milan hay lãnh chúa Alfonso – cao thượng thành Naples.
Những nhà bảo trợ này được gọi là những nhà bảo trợ thế tục. Bên cạnh
các nhà bảo trợ thế tục thì các nhà ảo trợ trong Giáo hội cũng tồn tại
mà cụ thể là những Đức giáo hoàng như Nicholas đệ ngũ, Leo đệ thập….
Với sự bảo trợ của những nhà bảo trợ kể trên thời kỳ phục hưng đã dần
hình thành. Ngoài ra thời phục hưng còn được dẫn tới trên cơ sở của
những sự kiện được cho là nguồn gốc của nó như cuộc thập tự chinh của
giáo hội đã mang về châu âu những ngoại giáo để có thể chống lại thế lực
của giáo hội và phong kiến hay là sự xuất hiện của kỹ thuật in bằng chữ
rời tại nước Đức. Với tất cả các nguyên nhân kể trên đã dẫn sự phát
triển của văn minh châu âu đi từ phong kiến sang thời kỳ Phục hưng.
1.2: Sự ra đời và lan rộng của thời kỳ Phục hưng ra toàn châu Âu.
1.2.1: Sự ra đời của thời kỳ Phục hưng tại Italia
Trong hầu hết tất cả các tài liệu nói về thời kỳ phục hưng đều nêu
rằng thời kỳ Phục hưng có nguồn gốc xuất phát tại Italia và sau này mới
lan rộng ra toàn châu Âu. Vấn đề đặt ra ở đây tại sao nguồn gốc của thời
kỳ Phục hưng lại là Italia chứ không phải là một quốc gia nào đó khác.
Vấn đề được đặt ra như vậy là không hề sai lầm và để có thể chứng minh
nó chúng ta sẽ đi sâu vào bối cảnh của nước Ý ( Italia) lúc đó để có thể
tìm ra những cơ sở cần thiết để chứng minh rằng Ý là cái nôi của thời
kỳ Phục hưng. Thứ nhất về chính trị của Italia lúc đó có một sự xáo trộn
nhất định. Nước Ý lúc đó không phải là một nhà nước có tính thống nhất
mà là một quốc gia đầy xáo trộn bởi các mối thù giữa các gia tộc và giữa
các thành bang – thành phố. Nguồn gốc chính của các sự xáo trộn đó
chính là mối quan hệ cạnh tranh trong thương mại một cách đầy quyết liệt
giữa các thành bang và các gia tộc tại Italia lúc đó. Chính sự xáo
trộn trên đã là cơ sở, là nền tảng cho hàng loạt các sự kiện diễn ra và
sự kiện đầu tiên đó là việc diễn ra các cuộc cách mạng trong cách cai
trị các thành bang – thành phố. Các thành bang tại Italia thời kỳ tiền
phục hưng hầu hết đều là các quốc gia cộng hòa tuy nhiên cho tới năm
1311 tại thành Milan với việc gia tộc Visconti lên nắm quyền điều hành
thành phố thành Milan đã chuyển từ chế độ cộng hòa sang chế độ độc tài.
Tiếp đó tới năm 1434 cộng hòa Florence được đặt dưới quyền kiểm soát của
nhà tài phiệt khai sáng Cosimo De Medici. Với sự cai trị của dòng họ
Medici Florence cũng trở thành chế độ độc tài như tại thành Milan và
sau đó tới các thành bang lớn khác của Italia cũng biến chuyển sang chế
độ độc tài như thành Venice và một số các thành bang khác. Và như một
lẽ hiển nhiên khi hầu hết các thành bang đều chuyển mình sang chế độ độc
tài và với các mối thù hằn vốn có thì việc những cuộc chiến tranh xâm
lược lẫn nhau đã diễn ra. Mở đầu của sự việc này đó là việc thành bang
Milan xâm lược được vùng đồng bằng Lombard và đe dọa thành Venice. Và để
tự bảo vệ mình chính quyền thành Venice quyết định mở rộng vào phần nội
địa để tăng cường sức mạnh của mình trước nguy cơ xâm lược của thành
Milan. Và tiếp đó là những sự mở rộng của các thành bang lớn khác trong
đó có thành phố Florence. Sự xâm lấn trên không chỉ được thực hiện bởi
các thành phố – thành bang mà các Đức giáo hoàng cũng tham gia vào việc
này. Như vậy về mặt chính trị nước Ý được thống trị bởi các thành bang
lớn như Milan, Florence, Venice, Naples và các Đức giáo hoàng. Và thật
sự trùng hợp khi tất cả các lực lượng thống trị nước Ý lúc đó đều là
những nơi mà những nhà bảo trợ của khoa học Ý sống và làm việc. Ngoài ra
về mặt văn hóa bản thân nước Ý cũng là nơi mà các khoa học có sự phát
triển khá mạnh ở thời Phục hưng, bên cạnh đó người Ý còn luôn tự hào về
nguồn gốc La Mã của mình cũng như là tự hào về vị trí địa lý đầy thuận
lợi của mình. Với tất cả những lý do kể trên Italia đã trở thành nơi
xuất phát của thời kỳ Phục hưng tại châu Âu. Thời kỳ phục hưng là một
làn sóng đầy mạnh mẽ không chịu sự bó hẹp tại đất nước Italia mà đã lan
rộng và tỏa sức ảnh hưởng của mình ra toàn cõi châu Âu.
1.2.2 : Sự lan rộng của thời kỳ Phục hưng ra toàn cõi châu Âu.
Nước Ý cái nôi của thời kỳ phục hưng có lẽ rằng là không đủ rộng lớn
để có thể cho thời kỳ phục hưng có được sự phát triển mạnh mẽ nhất thăng
hoa nhất. Và như một lẽ tất yếu văn hóa phục hưng đã có sự lan rộng ra
toàn cõi châu Âu. Nơi đầu tiên chịu sự ảnh hưởng lan rộng của thời kỳ
phục hưng đó là vùng Bắc Âu. Về mặt chính trị xã hội Bắc Âu và xã hội
Tây Âu gần như có sự tương đồng đối với nước Ý lúc đó. Các quốc gia Bắc
Âu lúc đó cũng có sự xáo trộn về chính trị với các quý tộc phong kiến
cát cứ kéo theo đó là các cuộc chiến tranh liên miên diễn ra. Tại Anh
cuộc chiến tranh Hoa hồng diễn ra giữa các phe phái dẫn tới sự thoái
trào của chế độ phong kiến tại Anh, tại Pháp và Tây Ban Nha cuộc chiến
tranh diễn ra để hình thành một quốc gia thống nhất cũng diễn ra. Tại
nước Đức tuy là một phần của đế chế La Mã thần thánh nhưng quyền bính
thực sự lại nằm trong tay các tiểu quốc nhỏ lẻ. Ngoài ra các quốc gia ở
khu vực Bắc Âu và Tây Âu cũng đã cử những sinh viên của mình tới học
tập và tắm mình trong bầu không khí tri thức của thời kỳ Phục hưng của
nước Ý và chính những con người này đã trở thành cầu nối, trở thành
những người truyền bá nền văn hóa Phục hưng của nước Ý ra toàn cõi châu
Âu.
- Thời kỳ Phục hưng – cái nhìn thông qua nghệ thuật
2.1: Thời kỳ Phục hưng tại Italia phản chiếu thông qua các loại hình nghệ thuật
Italia nơi được coi là cái nôi của thời kỳ Phục hưng không chỉ được
biết đến với những giá trị mà văn minh La Mã cổ đại còn để lại như đấu
trường Colosseum mà còn được biết tới với những giá trị văn hóa Phục
hưng. Và mỗi tác phẩm của thời kỳ Phục hưng tại Italia đều ẩn chứa trong
chúng những suy nghĩ, những trăn trở của thời đại đó. Sự phản ánh đó
của nghệ thuật phục hưng Italia với văn học, với hội họa, với điêu khắc
và kiến trúc đã tạo thành một tấm gương lớn phản ánh lại tinh thần của
xã hội. Và dưới đây chúng ta sẽ cùng đi sâu vào xem xét sự phản ánh đó
thông qua các loại hình nghệ thuật cơ bản nhất của văn hóa Phục hưng
Italia.
2.1.1: Sự phản ánh của văn học Phục hưng Italia với tinh thần xã hội.
Văn học nghệ thuật Italia thể hiện tiếng nói nhân văn nhân đạo hình
thành chủ nghĩa nhân đạo. Người được coi là cha đẻ của chủ nghĩa nhân
đạo trong văn học Italia thời kỳ Phục hưng là Francesco Petraca hay còn
được biết đến với cái tên là Petrarch ( 1304 – 1374). Petrarch là một
con người có sự yêu thích với văn học trung cổ. Điều này được thể hiện ở
chỗ ông thường xuyên sử dụng ngôn ngữ xứ Tuscan mà Dante đã từng sử
dụng để viết các tác phẩm của mình. Petrarch được vinh danh là cha đẻ
của chủ nghĩa nhân văn trong nền văn học Italia thời kỳ Phục hưng nhưng
chủ nghĩa nhân văn do ông sáng lập so với chủ nghĩa nhân văn của các
văn sĩ thời trung cổ chỉ có đôi phần khác biệt. Điểm mới mà văn học nhân
văn Petrarch mang lại đó chính là tình yêu cuồng nhiệt của ông đối với
văn học cổ điển của nền văn minh Hy Lạp – La Mã. Chính sự cuồng nhiệt
của Petrarch với nền văn học cổ điển Hy Lạp – La Mã đã phản ánh được một
phần nào đó những gì mà xã hội Italia thời kỳ Phục hưng đang tiến hành
và phục dựng đó là chấn hưng nền văn minh Hy Lạp – La Mã và ở một chừng
mực nào đó nó đã thể hiện lòng tự tôn và sự tự hào của người Italia về
nguồn gốc con cháu La Mã của mình. Chủ nghĩa nhân văn của văn học Italia
không chỉ dừng lại ở một đại diện là Petrarch mà nó còn tiếp nối tới
các thế hệ nhà văn Italia sau này như chủ nghĩa nhân văn mức độ thấp của
Giovanni Boccaccio (1313 – 1375). Thời kỳ mà Petrarch và Boccaccio sống
được gọi là thời kỳ Trecento và đây cũng chính là giai đoạn phát triển
cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Italia ở các giai đoạn sau
như Quattrocento hay Cinquecento nền văn học Italia lại có những sự
khác biệt về mặt đặc điểm.
Ở thời kỳ Quattrocento của nền văn học Italia ngôn ngữ tiếng Latin
phục hồi một cách đầy mạnh mẽ và nó dần thay thế cho những ngôn ngữ cũ
mà những Dante hay Boccaccio sử dụng. Cùng với sự phục sinh của ngôn ngữ
Latin văn học Italia giai đoạn này đã vươn tới chủ nghĩa khoái lạc với
các đại diện như Poggio, Beccadelli, Filelfo và Pontano. Với chủ nghĩa
khoái lạc của mình các nhà văn trên đã có những đòn công kích đầy mạnh
mẽ vào chế độ giáo hội Italia lúc đó. Bên cạnh chủ nghĩa khoái lại ở
giai đoan Quattrocento văn học Italia đã đạt tới sự nghiên cứu văn học
Hy Lạp cổ ở mức đỉnh điểm. Với việc các học giả của Byzantine tới nước Ý
để sinh sống họ đã mang theo những luồng quan điểm, tư tưởng của nền
văn minh Hy Lạp cổ tới với nước Ý và làm cho văn học Hy Lạp trở thành
một trong những nội dung nghiên cứu đầy tính tiêu biểu của văn học
Italia giai đoạn Quattracento.
Ở giai đoạn cuối cùng của mình là giai đoạn Cinquecento văn học
Italia đã có được một diện mạo mới với sự giao thoa đầy tính hoàn hảo
của văn học cổ điển Hy Lạp với văn học hiện đại. Nền văn học hoàn hảo
đó đã không còn chỉ bị bó hẹp trong phạm vi thành Florence mà nó đã lan
rộng ra và trở thành một trào lưu văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ.
Ngoài ra ở thời kỳ này các thiên sử thi và tiểu thuyết đồng quê cũng là
các hình thức văn học chính. Nổi bật nhất trong đó là Ludovico Ariosto (
1474 – 1533) tác giả của thiên sử thi Orlando Furioso. Đây là một cuốn
sử thi gây co bạn đọc cười và quyến rũ bạn đọc bằng vẻ đẹp tự nhiên được
tác giả miêu tả một cách đầy tài tình và chi tiết cũng như vẻ say đắm
của con người trong tình yêu. Tuy nhiên với sự ra đời của văn học đồng
quê ở giai đoạn Cinquecento thì đó đã là một lời cáo chung, một sự khép
lại hoàn toàn cho nền văn học Italia thời kỳ Phục hưng bởi với các tác
phẩm văn học đồng quê con người đã thể hiện sự thiếu tin tưởng của con
người vào cuộc sống đô thị đầy giả tạo và bên cạnh đó là sự ca ngợi đối
với cuộc sống ở đồng quê đầy yên ả, thanh bình và vàng son. Tác gia nổi
tiếng nhất của văn học đồng quê Italia thời Phục hưng đó là Jacopo
Sannazaro ( 1458 – 1530) với tác phẩm Arcadia.
2.1.2 : Sự phản ánh của hội họa Phục hưng Italia với tinh thần xã hội.
Nhắc tới nghệ thuật thời kỳ phục hưng tại Italia không thể không nhắc
tới hội họa. Nhiều người cho rằng hội họa của Italia phát triển sớm hơn
và mạnh mẽ hơn, nổi trội hơn so với văn học của Italia. Tuy nhiên quan
điểm trên chỉ đúng một phần là ở chỗ hội họa của Italia có sự phát triển
mạnh mẽ hơn, nổi trội hơn so với văn học ở cuối giai đoạn Quattrocento
còn ở giai đoạn Trecento hội họa Ý phát triển ở một mức độ vừa phải và
không quá nổi bật với đại biểu duy nhất là Giotto (1276-1337). Vào giai
đoạn Quattrocento các nhà hội họa không còn chỉ phục vụ cho nhà thờ bằng
việc vẽ các bức tranh kinh thánh mà họ còn được tự do thể hiện các bức
tranh của mình với các hình thức mới trong đó có tranh chân dung. Và ở
thời kỳ Quattrocento này những họa sĩ nổi danh đều là người của thành
Florence và người đi đầu đó là Masaccio. Ông là một tài năng nhưng lại
ra đi khi tuổi đời còn khá trẻ tuy nhiên những gì ông để lại cho các họa
sĩ giai đoạn sau đó là niềm cảm hứng bất diệt mang tên là chủ nghĩa
hiện thực và sử dụng cách phối màu lập thể giữa ánh sáng và bóng tối.
Tác phẩm lớn nhất của Masaccio là tác phẩm có tên : “ The Expulsion of
Adam and Eve from the Garden” và tác phẩm “ The Tribute Money” Những
người kế tục con đường của Masaccio là Fra Lippa Lippi và Botticelli.
Ngoài ra trong giai đoạn này hội họa thành Florence còn có một cái tên
hết sức nổi bật đó là Leonardo da Vinci.
Leonardo da Vinci ( 1452 – 1519) là một trong những cái tên sáng giá
nhất của hội họa Florence, một thiên tài đa tài nhất từng sống. Với
Leonardo da Vinci cách tiếp cận nghệ thuật của ông là rất khác biệt. Ông
không kiên nhẫn với những motip truyền thống được xác lập lâu đời mà
với ông nghệ thuật là phải dựa trên cơ sở khoa học để có thể sáng tạo.
Tuy nhiên ông lại không có ý định gò bó sự quan tâm của mình vào vẻ
ngoài của sự vật đơn thuần mà ông cho rằng người họa sĩ cần phải tìm
hiểu cần phải chinh phục được các cấu trúc bên trong của các sự vật hiện
tượng. Leonardo da Vinci là một người theo chủ nghĩa hiện thực trong
hội họa khác hẳn so với những thẻ loại thông thường thông qua cách lựa
chọn các vấn đề trong sáng tác hội họa của ông. Có thể nói một cách
chung nhất về Leonardo da Vinci khi mô tả các hiện tượng trong tự nhiên
ông không chỉ mô tả chúng thông vẻ tự nhiên bên ngoài mà ông còn cố gắng
thể hiện chúng như những biểu tượng, những tượng trưng cho những suy
nghĩ triết lý của mình. Những bức tranh mà người ta cho rằng là tuyệt
tác của Leonardo da Vinci là bức Virgin of the Rocks, Last Supper và
Mona Lisa. Với mỗi bức tranh trên Leonardo da Vinci không chỉ thể hiện
cái đẹp mỹ thuật của nó mà còn thể hiện những triết lý những nghiên cứu
khoa học của ông.
Như bức tranh Virgin of the Rocks đã thể hiện được những kỹ năng,
kỹ thuật hội họa đầy tuyệt vời của Da Vinci mà nó còn thể hiện được niềm
tin của ông vào vũ trụ vào sự sắp xếp hợp lý thông qua vị trí của các
nhân vật trong bức tranh.
|
|
Hay như với bức Last Supper – hay còn được biết với cái tên là “ Bữa
tiệc ly”- đã thể hiện một chuỗi cảm xúc của Đức Kito trong bữa tối cuối
cùng với các tông đồ của mình và thông báo với họ về việc mình bị phản
bội. Ở bức tranh này Leonardo da Vinci đã thể hiện hình ảnh của một Đức
Kito đầy trầm lắng, đầy sự cam chịu với số kiếp của mình, cùng với đó là
sự bất ngờ tới từ cảm xúc của các tông đồ về lời tuyên bố của Đức Kito.
Với bức tranh Mona Lisa – hay còn có ý nghĩa là nàng Lisa của tôi- cũng
là một bức tranh thể hiện được sự thay đổi cảm xúc trong tâm hồn con
người mà Da Vinci nghiên cứu. Nhân vật chính của bức tranh là một người
phụ nữ có thật và được Leonardo da Vinci mô tả mà theo đánh giá của sử
gia kiêm nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng Bernard Berenson nhận xét: “
Ai thích Leonardo mô tả … sự quyển rũ không bao giờ cạn của phụ nữ trong
độ tuổi trưởng thành? Leonardo là một trong những họa sĩ có thể hiểu
đúng hoàn toàn nghĩa đen: “ bất kỳ thứ gì ông chạm tay vào cũng đều biến
thành một vật có cái đẹp vĩnh hằng”.
Có thể nói hội họa của xứ Florence với các tên tuổi như Masaccio hay
Leonardo da Vinci đã thể hiện được những gì mà xã hội Italia nói chung
và thành phố Florence nói riêng đang vươn tới đó là sự phát triển của
khoa học, sự ham hiểu biết đối với các tri thức tự nhiên của con người
cũng như là sự phản ánh chân thực đời sống hiện thực thông qua những tác
phẩm hội họa hiện thực.
Ở cuối giai đoạn Quattrocento nền hội họa Italia xuất hiện một trường
phái hội họa mới đó là trường phái hội họa Venice với những cái tên nổi
bật như Titian ( 1477 – 1576) , Giorgione ( 1478-1510) và Tintoretto (
1518 – 1594). Khác với các họa sĩ của trường phái Florence các họa sĩ
trường phái Venice lại không quan tâm lắm tới việc đưa những triết lý
khoa học của mình vào trong các tác phẩm hội họa mà hơn cả là họ muốn
làm cho người xem càm thấy thích thú hơn với các màu sắc, các nội dung
có trong tác phẩm của mình để có thể làm thỏa mãn tinh thần. Trong các
tác phẩm hội họa của mình trường phái Venice đã thể hiện sự hiếu thích
đời sống xa hoa giàu có của giai cấp tư sản mới nổi, đã phản ánh những
tàn tích tới từ nghệ thuật phương Đông đã được thẩm thấu từ thời
Byzantine tới cuối thời Trung cổ.
Ngoài ra khi nhắc tới hội họa phục hưng Italia ta không thể không
nhắc tới tên tuổi của Rafaelfo ( còn được biết với cái tên là Raphael)
hay Michelangelo. Các họa sĩ đầy tài năng trên là những đại diện của nền
hội họa Italia giai đoạn Cinqueceto giai đoạn mà hội họa Italia phát
triển tới tầm vóc cao nhất và cũng chính là thời điểm cuối cùng của sự
phát triển hội họa Italia. Thành Rome ở giai đoạn này đã trở thành trung
tâm của nghệ thuật Phục hưng Italia và chính thành Rome là nơi đã góp
phần làm nên tên tuổi của Raphael. Raphael là một họa sĩ luôn thể hiện
các tác phẩm hội họa của mình với một sự duyên dáng, một chủ nghĩa nhân
văn đơn giản, cũng như là sự tôn vinh màu sắc và điều đó làm nên sự nổi
tiếng của ông. Các tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất của Raphael chính là
bức School of Athens và bức Sistine Madonna. Một họa sĩ khác cũng rất
nổi tiếng của hội họa Italia thời Phục hưng và được xem là người khổng
lồ của giai đoạn Cinqueceto đó là Michelangelo. Với hội họa Michelagelo
ông luôn thể hện trong đó sự căng thẳng, một sự bi quan gắn liền với
tiểu sử của ông. Với Michelangelo cái bi kịch mà ông thể hiện trong hội
họa của mình không phải là cái bi kịch mang tính chất cá nhân mà nó thể
hiện sự bi kịch có tính chất phổ biến và điều này đã làm nên chủ nghĩa
nhân văn trong hội họa Michelangelo. Các tác phẩm hội họa tiêu biểu nhất
của Michelangelo gắn liền với các nhà thờ với các đề tài trong kinh
thánh. Tiêu biểu nhất đó là bức God Dividing the Light from the
Darknest, God creating the Earth, The Last judgment…
Có thể thấy được rằng ở giai đoạn Cinqueceto các tác phẩm hội họa
cũng đã thể hiện trong đó những sự hoài nghi, những nỗi đau của nhân dân
Italia trong xã hội mới. Các tác phẩm hội họa mang trong mình những ý
muốn giải phóng con người cũng như thể hiện sự kìm kẹp, sự nhẫn tâm của
nhà thờ khi trừng phạt con người thông qua các bức bích họa của nhà thờ.
Có thể tổng kết rằng với hội họa Phục hưng Italia với mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử hội họa Italia lại phản ánh lại một phần tinh
thần của xã hội lúc đó và đặc biệt là ở hai giai đoạn là Quattrocento và
Cinquecento những gì là tiêu biểu nhất của tinh thần xã hội lúc đó đã
được thể hiện thông qua hội họa một cách đầy mạch lạc và đầy cảm hứng. Ở
giai đoạn Quattrocento đó là một tinh thần ham mê khám phá và chinh
phục khoa học của con người thì ở giai đoạn Cinquecento hội họa Ý lại
thể hiện một sự hoài nghi đối với xã hội mới, sự khao khát tự do của con
người nhưng bị trói buộc bởi nhà thờ. Tất cả những điều đó đã được thể
hiện trong hội họa Italia thời Phục hưng.
2.1.3: Sự phản ánh của điêu khắc và kiến trúc Phục hưng Italia với tinh thần xã hội.
Khi nói tới nghệ thuật Phục hưng Italia mà chúng ta không nhắc tới
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thì quả là một thiếu sót vô cùng lớn.
Cùng với hội họa nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Italia đã làm nên
một nền nghệ thuật đầy tính tiêu biểu của thời kỳ phục hưng tại xứ sở
hình chiếc ủng.
Nghệ thuật điêu khắc nước Ý bắt đầu có sự phát triển ở thời kỳ Phục
hưng và dần dần sau này điêu khắc đã có sự tách rời khỏi kiến trúc để có
được một vị thế riêng của mình. Nhà điêu khắc đầu tiên được cho là bậc
thầy điêu khắc của Italia thời kỳ Phục hưng đó là Donatelo ( khoảng 1386
– 1466). Ông đã giải phóng nghệ thuật điêu khắc của mình ra khỏi kiến
trúc Gothic và giới thiệu đặc điểm của chủ nghĩa cá nhân có nhiều sức
sống hơn so với những người tiền bối của mình. Bức tượng David chiến
thắng đứng trên xác của Goliath đã xác lập một tiền lệ cho chủ nghĩa tự
nhiên, của sự ca ngợi sự khỏa thân mà các điêu khắc gia sau này theo
đuổi nó. Ngoài ra Donatelo còn tạc tượng kỵ mã bằng đồng trong công
trình tưởng niệm đầu tiên từ thời La Mã. Nhà điêu khắc thứ hai không thể
không nhắc tới của nghệ thuật điêu khắc Italia thời Phục hưng đó là
Michelangelo. Michelangelo được đánh giá là nhà điêu khắc vĩ đại nhất
mọi thời đại và sự đánh giá đó quả là chính xác. Cũng giống như với hội
họa tượng điêu khắc của Michelangelo cũng thể hiện một sự bi quan, vô
vọng. Với Michelangelo nghệ thuật không phải là tuân theo chủ nghĩa tự
nhên đơn thuần mà hơn hết ông đề cao những tác động và quan điểm của bản
thân mình hơn so với tự nhiên trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Các
tác phẩm điêu khắc của Michelangelo luôn có những điểm khác biệt so với
những người khác như việc ông làm biến dạng tác dụng thuyết phục, thành
kiến với các chủ đề vỡ mộng và bi kịch, và khuynh hướng thể hiện các
quan điểm triết lý của mình trong các tác phẩm phúng dụ. Điêu khắc phúng
dụ là loại hình điêu khắc gắn liền với tên tuổi của Michelangelo. Trên
các lăng mộ của dòng họ Medici ở Florence ông tạc nhiều các tượng phúng
dụ tượng trưng cho những khái niệm đầy tính trừu tượng như đau khổ và
thất vọng. Hai trong số đó được biết tới với cái tên là Dawn và Sunset.
Bức tượng Dawn là tượng một phụ nữ đang trở mình, ngẩng cao đầu như bị
đánh thức bởi một ai đó. Trong khi đó bức tượng Sunset lại thể hiện hình
ảnh của một người đàn ông mạnh mẽ nhưng lại đang chìm đắm dưới sức khổ
ai của con người bao quanh. Khi cuối đời Michelangelo thường có khuynh
hướng đưa các tác phẩm điêu khắc của mình đặc điểm cảm xúc ngoạn mục và
cường điệu hơn. Bức tượng thể hiện cách rõ ràng nhất khuynh hướng này
của Michelangelo là bức tượng Pietà. Đây là bức tượng Đức Mẹ đồng trinh
đang đau khổ trước thi hai của Đức Kito. Tượng đứng phía sau của Đức Mẹ
đồng trinh có lẽ tượng trưng cho Michelangelo đang trầm ngâm suy nghĩ
về bi kịch tang thương. Những bức tượng tiêu biểu nhất cho nghệ thuật
điêu khắc của Michelangelo đó là tượng Moses, Bound Slave còn dang dở
trên lăng mộ Đức giáo hoàng Jullius đệ nhị, bức tượng Pietà, bức tượng
David và một số các bức tượng khác.
Bức tượng David – Michelangelo |
|
Như với bức tượng David của Michelangelo ông đã thể hiện hình ảnh
của một người thanh niên khỏe mạnh trong tư thế khỏa thân. Qua đó
Michelangelo đã lột tả vẻ đẹp đầy hoàn mỹ của người đàn ông, đó là một
vẻ đẹp tự nhiên mang lại cho con người. Từ đó ông đã thể hiện tiếng nói
của xã hội Ý đương thời muốn vươn tới sự giải phóng con người thoát khỏi
những kìm kẹp mà chế độ phong kiến và giáo hội. Qua bức tượng David
Michelangelo đã thể hiện tình yêu đối với con người cũng như sự đả kích
đối với chế độ phong kiến và giáo hội ở Châu Âu. |
|
Bên cạnh nghệ thuật điêu khắc nghệ thuật kiến trúc Italia thời kỳ
Phục hưng cũng đạt được nhiều những thành tựu. Nghệ thuật kiến trúc Phục
hưng có một phần cội rễ từ quá khứ và điều này là khác xa so với nghệ
thuật điêu khắc. Kiến trúc Italia Phục hưng là kiểu xây dựng mang tính
chất chiết trung, hỗn hợp với kiểu kiến trúc trung cổ và kiến trúc cổ
đại của dân ngoại đạo. Tuy nhiên những kiểu kiến trúc được lấy làm nguồn
cội ở đây không phải là kiến trúc Gothic hay kiến trúc Hy Lạp mà là
kiến trúc kiểu La Mã. Và lại một lần nữa văn hóa La Mã lại được hồi sinh
trong sự hân hoan và niềm tự hào của cư dân Italia những người vẫn coi
mình là hậu duệ của người La Mã. Với việc nghệ thuật kiến trúc La Mã trở
thành hình thức sáng tạo chính những công trình kiến trúc của Italia
cũng mang trong mình hình ảnh đặc trưng của kiến trúc La Mã đó là các
mái vòm, những họa đồ có hình thập giá, những hàng cột đá…. Các công
trình kiến trúc ra đời mặc dù chủ yếu là các công trình nhà thờ nhưng
quan điểm mà chúng thể hiện lại là quan điểm thuần túy thế tục, thể hiện
sự hân hoan, thích sống ở kiếp này cũng như sự hãnh diện về thành tựu
của nhân loại. Các công trình kiến trúc điển hình đó là công trình nhà
thờ thánh Peter ở Roma, công trình Villa Rotonda ở Vicenza hay giáo
đường Florence.
Nhìn chung khi nói về nghệ thuật tại Italia thời kỳ Phục hưng bên
cạnh những giá trị nghệ thuật mà chúng biểu đạt ta còn có thể thấy được
rằng ẩn chứa trong chúng là những suy tư, những trầm ngâm của người nghệ
sĩ sáng tạo ra nó. Và sự trầm ngâm, sự suy tư đó của họ không chỉ đơn
thuần là những quan điểm mang tính chất cá nhân, cá biệt mà nó là những
sự quan tâm mang tính phổ biến của con người thời kỳ đó và những người
nghệ sĩ chính là những con người tiêu biểu đại diện cho ý chí tâm tư
chung của cả xã hội Italia thời Phục hưng.
2.2: Thời kỳ Phục hưng lan rộng ra khắp châu Âu phản chiếu thông qua nghệ thuật.
Như một lẽ tất yếu với sức lan tỏa mãnh liệt của mình thời kỳ Phục
hưng và văn hóa Phục hưng đã có sự lan tỏa ra khắp châu Âu và chúng
nhanh chóng hòa nhập vào xã hội châu Âu và tạo ra những sự thay đổi lớn.
Văn hóa Phục hưng đã một lần nữa thực hiện xứ mệnh trở thành tấm gương
phản ánh tinh thần xã hội nhưng lần này không còn chỉ là xã hội Italia
mà đó là tinh thần xã hội của toàn châu Âu, tinh thần của một xã hội
đang có những bước chuyển mình hết sức mạnh mẽ. Để có thể biết được sự
phản ánh đó diễn ra như thế nào thông qua văn hóa chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu điều đó thông qua các loại hình nghệ thuật như văn học, kịch nghệ,
điêu khắc, kiến trúc và hội họa.
2.2.1: Sự phản ánh thông qua văn học và kịch nghệ của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng.
Loại hình nghệ thuật đầu tiên chúng ta tìm hiểu đó là văn học. Văn
học Phục hưng của châu Âu có một phần nào đó tương đồng với văn học Phục
hưng của Italia khi cả hai dòng văn học này đều nói lên những giá trị
mang tính chất nhân đạo. Tuy nhiên ở mỗi một quốc gia khác nhau tại châu
Âu tính chất nhân đạo của văn học lại được thể hiện thông qua các hình
thức, các thể loại văn học khác nhau.
Tại Anh trong văn học người Anh đi theo vết chân của những bậc tiền
nhân thời Trung cổ nhiều hơn các tác gia thời kỳ Phục hưng ở bất kỳ quốc
gia nào khác ngoại trừ Italia cái nôi của văn minh Phục hưng. Văn học
Phục hưng của Anh quốc ra bắt đầu từ giai đoạn nào thực sự là rất khó để
có thể xác định. Tuy nhiên theo một số các tài liệu thì tác phẩm nổi
tiếng nhất của nhà văn Anh Chaucer là Canterbury Tales được cho là tác
phấm văn học Trung cổ mang hơi hướng Phục hưng đầu tiên và là nguồn cảm
hứng cho sự ra đời của văn học Phục hưng tại Anh sau này. Khi nói tới
văn học Anh thời kỳ phục hưng ta có thể nhắc tới những tên tuổi như
Edmund Spenser ( 1552 – 1599) hay nổi tiếng hơn cả là William
Shakespeare. Khi nhắc tới William Shakespeare ta có thể nhắc tới những
tác phẩm văn học là kịch bản của những vở kịch nổi tiếng như Hamlet hay
Romeo&Juliete. Trong các tác phẩm của mình Shakespeare luôn thể hiện
một dấu ấn đậm nét của đức hạnh và khiếm khuyết của chủ nghĩa nhân văn
thời kỳ phục hưng. Giống như Boccaccio hay Rebelais ông thể hiện tình
yêu mãnh liệt với con người trần tục, ngoài ra giống với đa phần những
người theo chủ nghĩa nhân văn Shakespeare cũng có những sự quan tâm nhất
định tới khoa học và chính trị và điều này được biểu thị thông qua các
tác phẩm kịch của ông. Kịch của Shakespeare có thể chia thành ba nhóm
chính. Nhóm đầu tiên là nhóm được viết trong những năm đầu theo lối
truyền thống như vở “ Giấc mộng đêm hè”, “ Thương gia thành Venice” và
vở bi kịch trữ tình “Romeo and Juliet”. Nhóm kịch thứ hai của
Shakespeare là một nhóm kịch mang trong mình sự chua xót, cay đắng với
tính bi ai áp đảo. Tác phẩm tiêu biểu cho nhóm kịch này đó là vở
Hamlet…. Nhóm kịch thứ ba cũng là nhóm kịch cuối cùng của Shakespeare đó
là các tác phẩm được miêu tả như một cuốn tiểu thuyết điền viên với
những bức tranh tuyệt mỹ, những bi kịch cá nhân, những kế hoạch thần
thánh trong vũ trụ có phần nào được nhân từ và công bằng hơn trong tác
phẩm của Shakespeare.
Trong thời kỳ Phục hưng khi nói về văn học tại châu Âu không thể
không nhắc tới nhà văn Miguel de Cervantes cha đẻ của tiểu thuyết trào
phúng nổi tiếng Don Quixote. Cervantes với sự tài năng của mình đã gửi
vào tác phẩm Don Quixote những gì là đáng lên án nhất, đáng châm biếm
nhất của xã hội phong kiến châu Âu. Tiểu thuyết Don Quixote nói về một
quý tộc Tây Ban Nha với tính cách lập dị và những hành động kỳ quái
nhưng đầy chất hài hước. Và câu chuyện diễn ra trong sự tương phản đậm
nét giữa hai nhân vật là Don Quixote và người đầy tớ Sancho Panza. Nếu
như Don Quixote là một người đầu óc rối loạn với cuộc sống đậm chất hiệp
sĩ thì ở chiều hướng ngược lại Sancho Panza lại là một đại diện cho
những người sống thực tế, trần tục và hài lòng với những thú vui cơ bản
của một người bình thường. Toàn bộ tác phẩm chính là sự lên án của
Miguel de Cervantes với chế độ phong kiến châu Âu lúc đó. Ông cười nhạo
thái độ tự phụ, lối sống khoe khoang của giới quý tộc và những mặt trái
của xã hội trong chủ nghĩa tư bản mới ra đời đã khiến cho những giá trị
của cuộc sống con người bị chà đạp.
Tại nước Pháp thành tựu nổi tiếng nhất của họ ở thời Phục hưng là
thành tựu trong lĩnh vực văn học và triết học và được minh họa thông qua
các tác phẩm của Francois Rebelais ( 1490 – 1533) và Michel de Montaige
( 1533 – 1592). Nhân vật đầu tiên cần được nhắc tới của văn học Pháp
Phục hưng đó là Francois Rabelais.
Rabelais được đào tạo để trở thành một tu sĩ tuy nhiên ngay khi vào
dòng tu ông đã rời bỏ tu viện để đi học Y khoa tại đại học Montpellier.
Sau khi hoàn thành khóa học ông lấy bằng tiến sĩ và làm thầy thuốc chữa
bệnh cho dân chúng ở Lyon cùng với đó là việc biên soạn sách y học.
Trong quá trình này ông cũng đã thực hiện văn học ở các thể loại khác
nhau, các tác phẩm của ông có khi là những cuốn niên giám dành cho
thường dân, có khi lại là các tác phẩm châm biếm các thầy lang băm và
các nhà chiêm tinh hay là những bài thơ hài hước đả kích thói mê tín của
quần chúng. Hai tác phẩm tiêu biểu bậc nhất của Rabelais là cuốn
Gargantua và Pantagruel. Hai tác phẩm này được đặt tên dựa theo tên của
hai người khổng lồ trong truyền thuyết thời Trung cổ với sức mạnh phi
thường và những ham muốn thô tục. Với lối viết của mình Rabelais đã biến
những câu chuyện mạo hiểm của hai người khổng lồ trên trở thành một câu
chuyện dí dỏm hài hước và thể hiện một triết lý của chủ nghĩa nhân văn
dạt dào của ông. Ông sử dụng ngôn ngữ không mấy tao nhã để đả kích, châm
biếm các thông lệ của Giáo hội, ông chế giễu chủ nghĩa khắc kỷ, đả kích
mê tín và lên án mọi hình thức lòng tin mù quáng và ức chế. Có thể nói
không ai trong thời kỳ Phục hưng lại có thể thế hiện chủ nghĩa cá nhân
không nhân nhượng hay sự nhiệt tâm đối với vẻ đẹp của con người và tự
nhiên như Rabelais. Với ông tất cả bản năng của con người đều là có lợi
miễn là con người sử dụng bản năng đó vào những điều tốt đẹp chứ không
phải để thống trị người khác. Đại biểu thứ hai của văn học Pháp Phục
hưng đó là Montaigne. Montaigne là con của một gia đình theo đạo Tin
lành với những lễ giáo nghiêm ngặt nên văn học của ông cũng có sự ảnh
hưởng của những yếu tố trên. Các tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng
ngôn ngữ Latin và ông luôn thể hiện sự khó chịu trước những khắc
nghiệt, những đau khổ và bất hòa diễn ra xung quanh mình.
Có thể nói rằng chỉ với ba nền văn học kể trên chưa thực sự phản ánh
được tất cả những gì mà xã hội châu Âu lúc đó muốn cất tiếng nói nhưng
ba nền văn học trên đã thể hiện được, đã phản ánh được những gì đáng lên
án nhất, đáng nói nhất của cả xã hội châu Âu lúc đó. Và qua đó nó đã
thực hiện chức năng phản ánh tinh thần xã hội châu Âu lúc bấy giờ.
2.2.2: Sự phản ánh thông qua âm nhạc của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng.
Bên cạnh sự phát triển của văn học trong thời kỳ Phục hưng âm nhạc
của châu Âu cũng đã đạt tới được sự phát triển đỉnh cao. Trong khi các
môn nghệ thuật thị giác được kích thích sự phát triển bằng cách nghiên
cứu các mô hình cổ đại thì âm nhạc Phục hưng lại phát triển một cách tự
nhiên từ sự phát triển độc lập vốn có trước đây từ thời Trung cổ. Ban
đầu âm nhạc được phát triển để phục vụ cho các hoạt động của Giáo hội
với việc đề cao các giá trị âm nhạc mang tính chất dân gian kết hợp với
âm nhạc thần thánh để mang đến cái được thấy rõ trong sự hấp dẫn màu sắc
và cảm xúc. Sự khác biệt giữa cái thiêng liêng và thế tục là ít nhận
thấy được. Đây cũng là giai đoạn có nhiều các nhạc cụ được thử nghiệm
trong đó có các nhạc cụ đệm. Âm nhạc đã trở thành một bộ môn nghệ thuật
riêng biệt và điều đó dẫn tới vị thế cạnh tranh vị trí hàng đầu giữa các
quốc gia. Điều này dẫn tới việc ra đời hàng loạt các trường phái sáng
tác hàng đầu trong nghệ thuật châu Âu. Trong thế kỷ 15 tại Hà Lan và
Burgundy thường chiếm thứ hạng cao nhất. Trường phái âm nhạc của Hà Lan
đã đưa đối âm tới kỹ thuật hoàn hảo, những đại diện của trường phái này
đã trở thành những hình mẫu tài nghệ khéo léo xuất sắc nhất. Tới thế kỷ
16 người Ý đã cho ra đời nghệ thuật hợp xướng trong âm nhạc, những dàn
hợp xướng này phục vụ cho các Giáo đường đặc biệt trong đó là dàn hợp
xướng thành Rome. Bên cạnh sự phát triển âm nhạc ở Italia nước Áo, Anh
và Nam Đức cũng có được sự phát triển âm nhạc có thể so sánh với âm nhạc
Italia. Ở Anh trường phái nổi bật đó là
madrigal, trường phái này quan tâm tới tới tính tao nhã, tới kỹ thuật đối âm hoàn thiện.
2.2.3: Sự phản ánh thông qua các loại hình nghệ thuật khác của tinh thần xã hội châu Âu thời Phục hưng.
Tinh thần xã hội châu Âu thời kỳ Phục hưng không chỉ phản ánh thông
qua văn học kịch nghệ mà chúng còn được phản ánh thông qua các loại hình
nghệ thuật khác. Và với mỗi một quốc gia khác nhau tại châu Âu cách ảnh
hưởng của văn hóa Phục hưng và sự phản ánh của tinh thần thời đại lại
biểu hiện ở một loại hình nghệ thuật khác nhau.
Tại nước Đức tinh thần thời đại được phản ánh thông qua chủ nghĩa
nhân văn của những người khuyết danh và hội họa của Đức. Trong đó chủ
nghĩa nhân văn của những người khuyết danh được nổ ra ở những khu vực
thịnh vượng ở miền nam nước Đức như Augsburg, Nuremberg, Munich và
Vienna. Vào những năm 1450 xu hướng nhân văn đã được du nhập từ Italia
sang Đức và phát triển một cách mạnh mẽ trong các trường đại học nhất là
ở Heidelberg, Erfurt và Cologne với những đại diện nổi tiếng nhất đó là
Ulrich von Hutten và Crotus Rubianus. Hai người này sử dụng chủ ghĩa
nhân văn để diễn đạt những quan điểm phản đối chính trị và tôn giáo. Ở
một loại hình nghệ thuật khác đó là hội họa người Đức có sự phát triển
khá chậm tuy nhiên những đại diện tiêu biểu nhất của họ đều chịu sự ảnh
hưởng của nền hội họa Phục hưng Italia. Các tác phẩm hội họa của Đức đa
phần có mục đích là thể hiện sự giảm sút thấy rõ mà Đấng Cứu Thế phải
chịu đựng để chuộc tội cho con người và đồng thời họ là những người biện
minh cho cuộc cách mạng Tin Lành cũng như là dành trọn tài năng cho sự
nghiệp Tin Lành.
Tại nước Pháp ở thời kỳ Phục hưng bên cạnh những thành tựu về văn học
còn tồn tại những thành tựu không nhỏ về kiến trúc. Nghệ thuật kiến
trúc Pháp Phục hưng được biểu trương bởi công trình cung điện Louvre
trên địa điểm của kiến trúc cùng tên trước đây. Cùng với đó là các công
trình cung điện lâu đài được dựng nên trên khắp nước Pháp. Có thể nói
đặc điểm chung nhất của kiến trúc Pháp Phục hưng được biểu trưng thông
qua cung điện Louvre chính là sự kết hợp một cách tài tình giữa kiến
trúc Gothic được hoàn thiện ở thời Trung cổ với nghệ thuật kiến trúc
Italia mang những dấu ấn đậm nét của nền kiến trúc La Mã. Sự kết hợp
trên đã mang lại cho các công trình kiến trúc của Pháp một dáng vẻ vừa
chắc chắn cứng cáp đậm nét Trung cổ nhưng cũng thanh tao, tao nhã và
duyên dáng đậm chất nghệ thuật kiến trúc Italia. Qua đó thể hiện được sự
phát triển của đời sống xã hội đương thời, sự yêu thích những cái đẹp
và những giá trị cổ kính mà xã hội đương thời đang theo đuổi.
Tại bán đảo Iberia văn hóa Phục hưng lại có những sự xâm nhập khác.
Nếu như ở Tây Ban Nha văn hóa nghệ thuật Phục hưng không chỉ xuất hiện ở
văn học trào phúng của Cervantes mà nền hội họa Phục hưng Tây Ban Nha
còn vô cùng phát triển với những cái tên nổi danh như Luis de Morales
với bức tranh vẽ Đức Mẹ , chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá qua
đó thể hiện sự thành tâm đối với đạo cơ đốc hay họa sĩ Domenico
Theotocopuli hay còn được biết với cái tên là El Greco. Về El Greco ông
là một người nhập cư từ đảo Crete đã từng theo học Titian ở Venice. Có
thể nói hội họa của El Greco phần nào đó mang trong mình những đặc điểm
hài hòa giữa hội họa Italia Phục hưng và hội họa Tây Ban Nha Phục hưng.
Nghệ thuật hội họa của ông thể hiện sự duy cảm nồng nhiệt, bi kịch khắc
nghiệt hoặc là những cuộc trốn chạy vào thế giới siêu nhiên huyền bí qua
đó ông thể hiện lòng mộ đạo nhiệt thành của nhân dân Tây Ban Nha trong
thời kỳ hoàng kim của c ác tu sĩ dòng tên và Tòa án dị giáo. Những tác
phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là Burial of the Count of Orgaz,
Pentecost và The Apocalyptic Vision. Ở phần còn lại của bán đảo Iberia
là đất nước Bồ Đào Nha ở thời kỳ Phục hưng những ảnh hưởng của nghệ
thuật Italia có những ảnh hưởng khiêm tốn nhưng đặc trưng lớn nhất của
nghệ thuật Bồ Đào Nha chính là những công trình kiến trúc gắn liền với
sự phát triển của hàng hải tại đây.
Ở phía đông của châu Âu văn hóa nghệ thuật Phục hưng cũng đã có những
sự ảnh hưởng nhất định tới nghệ thuật ở đây trong đó có nghệ thuật kiến
trúc của Nga. Với sự giới thiệu của hoàng tử Ivan III các nhà kiến trúc
sư Ý đã mang đến với kiến trúc Nga những sự ảnh hưởng nhất định mà biểu
hiện rõ ràng nhất của điều đó là những công trình như nhà thờ Dormition
trong điện Kremlin hay công trình cung điện Terem.
Có thể khẳng định rằng văn hóa và nghệ thuật Phục hưng đã không chỉ
còn gói gọn trong phạm vi của một đất nước Italia mà đã lan tỏa ra khắp
châu Âu. Và nền văn hóa nghệ thuật Phục hưng đó đã mang lại cho văn hóa
châu Âu một sức sống mới, những giá trị mới đầy cao cả và nhân văn. Và
chính thông qua nền văn hóa nghệ thuật đó những giá trị tinh thần của
thời đại Phục hưng, của một xã hội châu Âu đang chuyển mình đã được miêu
tả được phản ánh một cách chân thực và đầy sâu sắc.
- Trích dẫn hình ảnh của một số các tác phẩm nghệ thuật thời kỳ Phục hưng tiêu biểu.
Bức tranh The Tribute Money của Masaccio |
|
Bức Last Supper còn được biết tới với cái tên bữa tiệc ly của Leonardo da Vinci
|
|
Bức Last Supper thể hiện sự tinh tế của Leonardo da Vinci trong cách
thể hiện các phản ứng tâm lý của từng nhân vật trong bữa tiệc khi Đức
Kito nói với các môn đồ rằng mình bị phản bội trong bữa tiệc ly. Trong
bức tranh này trạng thái tâm lý của Đức Kito được Da Vinci thể hiện đầy
tinh tế qua đó lột tả một cách rõ ràng trạng thái tâm lý buông xuông của
Đức Kito trước số phận. Bên cạnh đó là sự bất ngờ của các môn đồ khi
hay tin Đức Kito bị phản bội và sự ngầm hiểu ra của các môn đồ ở đoạn
cuối của bữa tiệc. Qua đó thể hiện mối quan tâm của Leonardo da Vinci
với bộ môn khoa học tâm lý.
Bức School of Athens – Raphael |
|
Đây là bức tranh thể hiện bối cảnh một trường học tại Athen với các
vị học giả đang tranh luận sôi nổi mà nhân vật trung tâm là cuộc tranh
luận của Platon với Aristotle. Qua đó Raphael đã thể hiện tinh thần ham
mê và mông muốn chinh phục, khám phá tri thức của người dân châu Âu
đương thời.
Bức tranh The Last judgment – Michelangelo |
|
|
|
Bức tranh trên trần nhà nguyện Sistine – Michelangelo |
|
Công trình Villa Rotonda gần Vicenza |
|
Bức tượng Pietà – Michelangelo |
|
Tác phẩm Don Quixote – Miguel de Cervantes.
Tác phẩm đó kể về một nhà quý tộc bị loạn trí có tên là Don Quixote
bị loạn trí và tiến hành những hành động hiệp sĩ của mình cùng với người
tùy tùng thân cận là Sancho Panza. Một tiểu thuyết trào phúng đầy hài
hước được Cervantes dùng để đả kich xã hội đương thời thối nát chà đạp
các giá trị sống của con người. |
|
C. PHẦN KẾT LUẬN
Nghệ thuật với một trong những chức năng chính của mình là chức năng
phản ánh hiện thực khách quan của xã hội. Đặc biệt trong thời kỳ Phục
hưng tại châu Âu nghệ thuật đã thực hiện xuất sắc chức năng phản ánh của
mình. Nghệ thuật Phục hưng châu Âu đã phản ánh lại tinh thần xã hội
đương thời, một xã hội châu Âu đang chuyển mình với những biến động,
những xu hướng mới về đời sống tinh thần, một xã hội mà những giá trị
của con người được đề cao. Qua đó có thể khẳng định rằng sự xuất hiện
của nghệ thuật Phục hưng như tấm gương phản ánh tinh thần xã hội đương
thời.
CÁC THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG
Trecento : Theo tiếng Italia từ này có nghĩa là 300 và được sử dụng để biểu thị những năm sau năm 1300 tức thế kỷ thứ 14.
Quattrocento : Theo tiếng Italia có nghĩa là 400 và được sử dụng để biểu thị những năm sau năm 1400 tức thế kỷ thứ 15.
Cinquecento: Theo tiếng Italai có nghĩa là 500 và được sử dụng để biểu thị những năm sau năm 1500 tức thế kỳ thứ 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1:Edward McNall Burns: Western Civilzation: Their history and their
culture. Bản dịch có tên Văn minh Phương Tây – Lịch sử và văn hóa. Nhà
xuất bản từ điển bách khoa.
2: Nguyễn Văn Đại [ 2011]: Giáo trình Mỹ học Marx – Lenin, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
Lão C.
P/s: Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả về vấn đề này.